Tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc (Lâm Đồng) giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 119.000 đồng/kg. Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay ở mức 119.800 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua cùng mức 119.700 đồng/kg.
Tương tự tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê hôm nay thu mua ở mức 119.800 đồng/kg tại Gia Nghĩa và 119.700 đồng/kg ở Đắk R'lấp. Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê hôm nay ở mức 119.800 đồng/kg (Chư Prông), ở Pleiku và La Grai cùng giá 119.700 đồng/kg.
Còn giá cà phê hôm nay tại tỉnh Kon Tum được thu mua với mức 119.800 đồng/kg. Thị trường cà phê trong nước giữ ổn định so với cùng thời điểm hôm qua.
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta tại London giao tháng 9/2024 tăng 225 USD/tấn, ở mức 5.128 USD/tấn, giao tháng 11/2024 tăng 141 USD/tấn, ở mức 4.715 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica giao tháng 12/2024 tăng 4,4 ở mức 247,3 cent/lb, giao tháng 3/2025 tăng 3,6 cent/lb, ở mức 244,8 cent/lb.
Tổng kết tuần trước, giá cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng 11 tăng 263 USD/tấn. Giá cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 12 tăng 3,2 cent/lb. Giá cà phê nội địa tăng trung bình 1.600 đồng/kg.
Phiên giao dịch cuối tuần trước, giá cà phê Robusta tăng vọt lên mức cao kỷ lục mới, mang lại niềm vui và hy vọng về giá cả vụ mới cho người nông dân.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân để cả 2 loại cà phê tiếp tục tăng mạnh vẫn là do điều kiện thời tiết bất lợi ở Brazil và Việt Nam đe dọa đến mùa vụ cà phê toàn cầu.
Các nhà phân tích từ Safras & Mercado đã đưa ra ước tính gần 98% vụ cà phê mới của Brazil đã được thu hoạch, tính đến ngày 19/8/ 2024.
Một cuộc thăm dò của Reuters được thực hiện với 11 nhà phân tích thương mại và thị trường hàng đầu cho thấy, thặng dư cà phê toàn cầu tính từ tháng 10 năm 2023 đến tháng 9 năm 2024 khoảng 700.000 bao. Lượng thặng dư cho niên vụ cà phê từ tháng 10 năm 2024 đến tháng 9 năm 2025 là khoảng 150.000 bao, đây một lượng dự trữ rất nhỏ cho cả thế giới.
Cuộc thăm dò kết luận rằng thị trường cà phê sẽ tiếp tục đi theo quỹ đạo tăng giá vào cuối năm.
Nhìn chung, do tình trạng thiếu hụt nguồn cung và trữ lượng cà phê thấp, giá toàn cầu đối với cà phê, đặc biệt là Robusta, đã đạt mức cao nhất trong 15 năm, cho thấy sự mất cân bằng cung cầu. Nhu cầu thị trường liên tục tăng sẽ thúc đẩy cà phê Robusta tăng trong tương lai.
Một nguyên nhân quan trọng khác giúp cà phê tăng vọt tuần qua đó là đồng USD giảm sâu. USD giảm do đầu cơ kỳ vọng Fed sớm giảm lãi suất ngay cuộc họp tới đây.
Hồ tiêu duy trì ổn địnhGiá hồ tiêu hôm nay ngày 26/8/2024, tại khu vực Đông Nam Bộ ổn định so với ngày hôm qua, giao dịch quanh mốc 143.000 -144.000 đồng/kg, giá mua cao nhất tại các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông là 144.000 đồng/kg.
Theo đó, giá tiêu Đắk Lắk được thu mua ở mức 144.000 đồng/kg duy trì đi ngang so với ngày hôm qua. Giá tiêu Chư Sê (Gia Lai) thu mua ở mức 143.000 đồng/kg ổn định so với ngày hôm qua. Giá tiêu Đắk Nông hôm nay ghi nhận ở mức 144.000 đồng/kg đi ngang so với ngày hôm qua.
Tại khu vực Đông Nam Bộ, giá tiêu hôm nay ổn định với ngày hôm qua. Cụ thể, tại Bình Phước giá tiêu hôm nay ở mức 143.000 đồng/kg đi ngang so với ngày hôm qua. Tại Bà Rịa – Vũng Tàu hiện ở mức 143.000 đồng/kg duy trì ổn định so với ngày hôm qua;
Như vậy, giá tiêu hôm nay chững lại ở các vùng trọng điểm so với ngày hôm qua, ghi nhận mức giá cao nhất 144.000 đồng, dao động ở vùng giá 143.000 – 144.000 đồng/kg.
Tổng kết tuần này, giá tiêu nội địa tăng trung bình 4.000 - 5.000 đồng/kg. Trong tuần thị trường có chuỗi 4 ngày tăng liên tiếp.
Cập nhật giá tiêu thế giới từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), kết thúc phiên giao dịch gần nhất, IPC niêm yết giá tiêu đen Lampung của Indonesia đạt 7.490 USD/tấn ổn định so với ngày hôm qua, giá tiêu trắng Muntok giữ ở mức 8.818 USD/tấn.
Giá tiêu đen ASTA 570 của Brazil duy trì ổn định giữ ở mức 6.300 USD/tấn. Giá tiêu đen ASTA của Malaysia tiếp tục đứng vững ở mức 8.500 USD/tấn; giá tiêu trắng ASTA của nước này đạt 10.400 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 5.800 USD/tấn với loại 500 g/l; loại 550 g/l mức 6.200 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 8.500 USD/tấn.
Như vậy, chốt phiên giao dịch cuối tuần, giá tiêu tại Indonesia và Brazil cùng tăng. Trong khi giá hồ tiêu xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận ở mức thấp nhất trên thị trường.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) thông tin, nguồn cung hồ tiêu toàn cầu được bổ sung khi Indonesia bước vào vụ thu hoạch, bắt đầu từ tháng 7-8. Tuy nhiên, Brazil - quốc gia xuất khẩu hồ tiêu hàng đầu thế giới đang đối mặt với tình trạng mất mùa liên tục do hạn hán. Dấu hiệu thiếu hụt nguồn cung so với nhu cầu sẽ tiếp tục được ghi nhận trong thời gian tới.
Ông Hoàng Phước Bính - Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Hồ tiêu Chư Sê nhận định: Hiện giá thành sản xuất hồ tiêu rơi vào khoảng 70.000 – 80.000 đồng/kg. Trong đó, khu vực Tây Nguyên giá thành sản xuất hồ tiêu ở mức 70.000 đồng/kg; khu vực miền Đông Nam bộ ở mức 80.000 đồng/kg.
So với giá bán thì cũng đã hấp dẫn đối với người nông dân trong việc quay lại với cây "vàng đen" này. Vẫn có người trồng lại hồ tiêu, nhưng tỷ lệ người trồng hồ tiêu lại là rất ít, không đáng để đưa vào con số thống kê. Con số hồ tiêu chết tự nhiên của các vườn tiêu hàng năm hiện rơi vào khoảng 5 - 7%. Diện tích hiện nay trồng mới lại thấp hơn con số này.
Cách đây mấy năm, nhiều nhà vườn trồng xen canh cây sầu riêng vào vườn hồ tiêu. Hiện nay, cây sầu riêng đang 'hot', nhiều nhà vườn quyết định chặt hạ hồ tiêu và giữ lại sầu riêng. Trung bình, để giữ lại một cây sầu riêng, người nông dân phải chặt hạ đi khoảng 8 cây hồ tiêu.
Giá cao su biến động trái chiềuTại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 ổn định ở mức 348,7 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 26/8 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,54% ở mức 15.005 Nhân dân tệ/tấn.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, trị giá nhập khẩu cao su tự nhiên (HS 4001) của Trung Quốc đạt 2,03 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong thời gian này, Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu từ các thị trường như Thái Lan, Bờ Biển Ngà, Malaysia, Indonesia, Lào và Việt Nam.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su tự nhiên lớn thứ 6 cho Trung Quốc với 123,48 triệu USD, tăng 21,7% so với cùng kỳ năm 2021.
Thị phần cao su tự nhiên của Việt Nam chiếm 6,1% trong tổng trị giá nhập khẩu của Trung Quốc, cao hơn so với mức 5,8% của 6 tháng đầu năm 2021.
Trong khi đó, Trung Quốc cũng đẩy mạnh nhập khẩu cao su tự nhiên từ các thị trường: Bờ Biển Ngà, Indonesia, Lào, Myanmar, Philippines,... Trong đó, trị giá cao su tự nhiên nhập khẩu từ Lào tăng mạnh nhất, tăng tới 973,6% so với cùng kỳ năm 2021.
Tuy nhiên, Trung Quốc giảm nhập khẩu cao su tự nhiên từ một số thị trường như: Thái Lan, Malaysia, Campuchia…,
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) cho biết, trong bối cảnh thị trường xuất khẩu có nhiều yếu tố tích cực và không tích cực đan xen nhau, nếu những tháng cuối năm thị trường không xuất hiện những đột biến lớn, thì xuất khẩu cao su sẽ khó tăng mạnh so với năm 2023.
Giá lúa gạo đi ngangGiá lúa gạo hôm nay ngày 26-8 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long ổn định so với ngày hôm qua.
Cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang cho biết, giá lúa hôm nay ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Lúa IR 50404 giá dao động quanh mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở mức giá 8.400 - 8.600 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ở mức 8.200 - 8.400 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 8.600 - 8.800 đồng/kg; lúa OM 380 dao động 7.600 - 7.800 đồng/kg; lúa Nhật ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Bên cạnh đó, thị trường nếp duy trì đi ngang so với ngày hôm qua. Nếp IR 4625 (tươi) 7.400 - 7.600 đồng/kg, ổn định so với ngày hôm qua. Nếp An Giang (tươi) 7.000 - 7.200 đồng/kg, đi ngang so với ngày hôm qua.
Thị trường gạo tại các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay nhìn chung ít người mua, giá bình ổn, giao dịch chậm.
Mặt hàng phụ phẩm hôm nay ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Hiện, giá tấm OM 5451 giữ ở mức 9.400 - 9.500 đồng/kg; giá cám khô giữ ở mức 7.100 - 7.200 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, giá gạo ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Hiện gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu giữ ở mức 11.400 - 11.450 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 ở mức 13.400 - 13.500 đồng/kg.
Tại các chợ lẻ, giá gạo ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm giữ ở mức 440 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm duy trì ở mức 578 USD/tấn; gạo 25% tấm giữ ở mức 544 USD/tấn.
KHÁNH LINH (t/h)