Thực hiện Đề án "Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal của Việt Nam đến năm 2030" theo Quyết định số 10/QĐ-TTg ngày 14/2/2023, ngày 14/8, Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông phối hợp với Viện Nghiên cứu tôn giáo (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) tổ chức hội thảo "Văn hoá Islam và triển vọng phát triển ngành Halal ở Việt Nam".
PGS.TS. Lê Phước Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông cho biết, văn hóa Islam có nhiều đặc trưng trong đời sống xã hội cũng như đời sống tôn giáo. Do đó, muốn xây dựng mối quan hệ bền vững trong phát triển kinh tế - xã hội với thế giới Islam giáo, cần tìm hiểu về văn hóa Islam, hiểu về những phong tục, tập quán, những điều kiêng kỵ trong cuộc sống của cộng đồng Islam giáo ở trên thế giới và Việt Nam. Điều đó sẽ thúc đẩy quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam và các nước theo Islam giáo.
Muốn hiểu về văn hóa Islam, trước hết phải hiểu được hai thuật ngữ Halal và Haram. Halal là những nguyên tắc được phép, được thực hiện và Haram là những điều không được phép, cấm kỵ, không được thực hiện trong đời sống cả đạo và đời, được xây dựng dựa trên những điều quy định trong Kinh Qur'an, Sunna, luật lệ/khế ước Idjma và án lệ Qiyas (đây là bốn thành tố nằm trong Luật Shari'ah/Luật Hồi giáo của các nước Islam giáo.
Theo Islam giáo, Halal và Haram bao gồm tất cả các khía cạnh của cuộc sống, không chỉ trong các lĩnh vực thực phẩm, đồ uống, dược phẩm, mỹ phẩm… mà còn bao quát các vấn đề văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội.
Ngoài các tín đồ Islam giáo, người tiêu dùng trên thế giới ngày càng quan tâm đến thực phẩm Halal bởi các sản phẩm Halal được nhận diện là sản phẩm chất lượng cao, được sản xuất trong một hệ thống quản lý bảo đảm an toàn vệ sinh nghiêm ngặt. Riêng ngành thực phẩm Halal không chỉ về sản xuất, chế biến mà còn liên quan đến nguyên liệu, dịch vụ hậu cần… Do vậy, phát triển ngành Halal sẽ thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực, dịch vụ phụ trợ đi kèm.
Hơn thế nữa, theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), chỉ riêng du lịch của người Islam giáo chiếm 10% nền kinh tế du lịch thế giới với chi tiêu cho du lịch ước tính đạt 200 tỷ USD. Du lịch Halal sẽ tiếp tục là một trong những ngành du lịch phát triển nhanh nhất thế giới và du khách Halal sẽ là một phân khúc chính của thị trường du lịch khi dân số Islam giáo được dự báo đạt 2,2 tỷ người vào năm 2030.
Việt Nam mới chỉ bước đầu tiếp cận thị trường HalalVới nhiều lợi thế về nông nghiệp, thực phẩm, du lịch, dệt may… và là một nước hội nhập sâu với việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), nhưng mức độ và hiệu quả tham gia thị trường Halal toàn cầu chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam.
Theo PGS. TS. Lê Phước Minh, Việt Nam chỉ có khoảng 20 mặt hàng xuất khẩu ở thị trường Halal – một con số rất thấp. Có tới 40% các địa phương Việt Nam chưa có sản phẩm xuất khẩu có chứng nhận Halal hay nói cách khác Việt Nam mới chỉ bước đầu tiếp cận thị trường Halal.
Du lịch Việt Nam được coi là một ngành kinh tế mũi nhọn vì có tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú. Giai đoạn từ 2015-2019, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng 2,3 lần từ 7,9 triệu lượt lên 18 triệu lượt, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 22,7% mỗi năm, song lượng du khách Islam giáo chiếm tỉ lệ không đáng kể.
Trong khi đó, các nước láng giềng của Việt Nam như: Thái Lan và Singapore – hai quốc gia không theo Islam giáo ở Đông Nam Á rất thành công trong việc thu hút du khách đến từ các quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh (GCC) - là những khách hạng sang, có khả năng chi tiêu cao và thời gian lưu trú dài.
Do vậy, việc hiểu về văn hóa Islam sẽ giúp Việt Nam nắm bắt được tâm lý, thói quen, thị hiếu, lễ nghi, tôn giáo … của người theo Islam giáo để từ đó khai mở thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa Halal toàn cầu cũng như thu hút nhiều hơn du khách và nhà đầu tư Islam giáo đến Việt Nam, góp phần bứt phá tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững trong bối cảnh mới.
Tại Hội thảo, các nhà khoa học, chuyên gia đã cung cấp, thảo luận những thông tin làm rõ hơn bức tranh tổng thể về văn hoá Islam, bao gồm phong tục, tập quán, những điều kiêng kỵ trong cuộc sống của cộng đồng Hồi giáo trên thế giới và ở Việt Nam. Qua đó, cũng nâng cao nhận thức và hiểu biết về ngành Halal cho các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và người dân Việt Nam.
Điều này góp phần quan trọng mở ra cơ hội để Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị Halal toàn cầu và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, thu hút du khách Islam giáo và nguồn vốn đầu tư hàng tỷ USD từ cộng đồng Islam...
Hoàng Giang