Ảnh minh họa
Dầu đóng cửa trên 80 USD
Giá dầu Brent đóng cửa trên 80 USD/thùng sau khi lo ngại nhu cầu và phí bảo hiểm rủi ro xung đột giảm dần đã gây ra đợt bán tháo vào đầu tuần này.
Chốt phiên 9/11, dầu thô Brent tăng 0,47 USD hay 0,59% lên 80,01 USD/thùng. Dầu WTI tăng 0,41 USD hay 0,54% lên 75,74 USD/thùng.
Vào cuối phiên giao dịch, các bình luận của Chủ tịch Fed Jerome Powell cho thấy khả năng tăng lãi suất trong tương lai đã làm lung lay hy vọng nhu cầu mạnh mẽ của thị trường dầu thô.
Các yếu tố cơ bản của thị trường đã chi phối tâm lý nhà đầu tư trong suốt phiên giao dịch do lo sợ sự gián đoạn nguồn cung ở Trung Đông đã giảm bớt.
Dầu Brent giảm gần 20 USD/thùng so với mức đỉnh hồi tháng 9.
Số liệu từ Trung Quốc cho thấy các nhà hoạch định chính sách đang nỗ lực kiểm soát giảm phát, gây nghi ngờ về cơ hội phục hồi kinh tế trên diện rộng ở quốc gia tiêu dùng hàng hóa lớn nhất thế giới này. Trước đó trong tuần số liệu cho thấy tổng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Trung Quốc giảm nhanh hơn dự kiến.
Các chỉ số nhu cầu cũng cho thấy sự suy yếu tại Mỹ.
Dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 11,9 triệu thùng trong tuần tính tới ngày 3/11, theo số liệu của Viện Dầu khí Mỹ. Nếu đúng thì đây sẽ là tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 2. Tuy nhiên Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) đã trì hoãn phát hành số liệu tồn kho dầu hàng tuần tới ngày 15/11 để nâng cấp hệ thống.
Tuy nhiên, thị trường toàn cầu lạc quan với niềm tin rằng các ngân hàng trung ương lớn đã hoàn tất việc tăng lãi suất. Lãi suất cao làm tăng chi phí vay, giảm nhu cầu trên các thị trường, bao gồm cả dầu mỏ.
Vàng phục hồi
Giá vàng tăng do các nhà đầu tư đợi bài phát biểu của Chủ tịch Fed Jerome Powell để có manh mối rõ ràng về lãi suất, trong khi đó palađi giảm dưới 1.000 USD/ounce lần đầu tiên kể từ năm 2018.
Vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.963,49 USD/ounce sau khi xuống thấp nhất kể từ ngày 18/10. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 tăng 0,6% lên 1.968,9 USD/ounce.
Giá vàng có thể vượt ngưỡng 2.100 USD trong quý 2/2024 và chất xúc tác sẽ là Fed cần bắt đầu giảm lãi suất.
Vàng đã giảm gần 40 USD sau khi đạt 2.000 USD trong tuần trước khi căng thẳng leo thang tại Trung Đông.
Palađi giảm hơn 5% xuống 996,67 USD sau khi xuống mức thấp nhất kể từ năm 2018 tại 991,53 USD.
Đồng ổn định
Giá đồng ổn định tại London do USD giảm bù cho áp lực từ tình trạng phục hồi kinh tế không chắc chắn tại Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) không đổi tại 8.143,5 USD/tấn. Giá đồng đã giảm 2,7% trong năm nay.
Số liệu cho thấy một bức tranh hỗn hợp về diễn biến kinh tế của Trung Quốc. Hoạt động sản xuất chậm lại trong tháng 10, nhưng nhập khẩu bất ngờ tăng, nhập khẩu đồng cao nhất trong 10 tháng.
USD yếu khiến các kim loại định giá bằng đồng tiền này giá phải chăng hơn cho người mua sử dụng các ngoại tệ khác.
Về phía nguồn cung, các xe tải chở hàng nghìn tấn đồng ở Congo đã nối lại hành trình tới biên giới với Zambia sau một cuộc đình công dữ dội.
Quặng sắt cao nhất 16 tháng
Giá quặng sắt tiếp tục tăng phiên thứ hai liên tiếp, do hy vọng hỗ trợ hơn nữa cho lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc và dự đoán gián đoạn nguồn cung tạm thời lấn át dữ liệu kinh tế đáng thất vọng.
Quặng sắt giao tháng 1/2024 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa tăng 1,79% lên 939 CNY (128,89 USD)/tấn, cao nhất kể từ tháng 6/2022.
Trong khi đó, quặng sắt kỳ hạn tháng 12 tại Singapore tăng 0,26% lên 125,05 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 3/4.
Chính quyền Trung Quốc đã yêu cầu tập đoàn bảo hiểm Ping An nắm cổ phần kiểm soát trong Country Garden. Tin tức này đã thúc đẩy tâm lý thị trường và khiến cổ phiếu bất động sản tăng mặc dù Ping An phủ nhận việc chính phủ đã tiếp cận sau báo cáo này.
Lo ngại về khả năng gián đoạn nguồn cung sau vụ tai nạn ở Vale, nhà cung cấp quặng sắt hàng đầu thế giới, đã hỗ trợ thêm cho giá cả.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cảnh báo nguy cơ giảm giá từ khả năng giám sát chặt chẽ hơn của các cơ quan chức năng.
Tại Thượng Hải, thép thanh tăng 1,39%, thép cuộn cán nóng tăng 1,41%, dây thép cuộn tăng 0,85% và thép không gỉ tăng 0,24%.
Cao su Nhật Bản tăng
Giá cao su Nhật Bản tăng được hỗ trợ bởi đồng JPY yếu, mặc dù các yếu tố giảm phát tại Trung Quốc đã hạn chế đà tăng.
Hợp đồng cao su giao tháng 4/2023 trên sàn giao dịch Osaka tăng 3,7 JPY hay 1,4% lên 262,5 JPY (1,74 USD)/kg.
Tại Thượng Hải, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 85 CNY hay 0,6% lên 14.175 CNY (1.945,75 USD)/tấn.
Giá tiêu dùng của Trung Quốc giảm và tình trạng giá tại xưởng giảm vẫn tiếp diễn trong tháng 10 do nhu cầu trong nước khó khăn, ảnh hưởng tới triển vọng phục hồi trên diện rộng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.
Cà phê tăng
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2024 đóng cửa tăng 2,1 US cent hay 1,2% lên 1,742 USD/lb do thị trường này tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ nguồn cung khan hiếm trong ngắn hạn và dự trữ của sàn giao dịch giảm.
Dự trữ của sàn ICE giảm xuống 310.501 bao trong ngày 8/11, mức thấp nhất trong 24 năm.
Hiện tượng thời tiết El Nino có thể khiến thời tiết khô hạn và giảm sản lượng cà phê tại Đông nam Châu Á, gồm các nhà sản xuất lớn Việt Nam và Indonesia.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2024 đóng cửa tăng 24 USD hay 1% lên 2.430 USD/tấn.
Tại Việt Nam giá thầu và giá chào bán vẫn xa nhau, người mua chờ giá ổn định trước khi xuất hiện cà phê vụ mới khi vụ thu hoạch đạt cao điểm vào cuối tháng này.
Nông dân tại Tây Nguyên đang bán cà phê nhân xô ở mức 57.200 – 58.600 đồng (2,35 – 2,40 USD)/kg, so với 57.700 – 59.000 đồng một tuần trước.
Thương nhân đã chào bán cà phê robusta loại 2 với 5% hạt đen và vỡ ở mức cộng 120 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2024 tại London, tuy nhiên người mua chỉ đồng ý mua ở mức cộng 40 – 50 USD/tấn.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm đạt 1,3 triệu tấn, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước.
Tại Indonesia, cà phê Sumatran được chào bán ở mức cộng 600 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2024, tăng 40 USD so với một tuần trước do tình trạng nguồn cung thiếu hụt.
Đường tăng
Đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 đóng cửa tăng 0,57 US cent hay 2,1% lên 27,78 US cent/lb sau khi tăng lên mức cao nhất 12 năm tại 28,14 US cent.
Xuất khẩu đường của Thái Lan có thể đối mặt với sự chậm trễ vào năm tới, sau khi chính phủ đưa ra các biện pháp mới để bảo vệ nguồn cung nội địa và ngăn chặn buôn lậu.
Đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 7,6 USD hay 1% lên 756,6 USD/tấn.
Ngô, đậu tương, lúa mì giảm
Giá ngô trên sàn giao dịch Chicago giảm mạnh sau khi chính phủ báo cáo nông dân Mỹ sẽ sản xuất vụ ngô bội thu nhất đã từng trong năm nay.
Hợp đồng ngô CBOT có thời điểm đã giảm xuống 4,66-1/2 USD, thấp nhất kể từ ngày 30/12/2020 trước khi tăng trở lại.
Đậu tương giảm sau khi báo cáo Ước tính Cung và Cầu Nông nghiệp Thế giới dự báo rằng dự trữ dậu tương toàn cầu cuối vụ này sẽ lớn kỷ lục.
Đậu tương CBOT đóng cửa giảm 22-1/4 US cent xuống 13,43-1/2 USD/bushel. Ngô giảm 8 US cent xuống 4,68 USD/bushel, trong khi lúa mì giảm 11-1/2 US cent xuống 5,80-3/4 USD/bushel.
Giá gạo Thái Lan tăng, gạo Ấn Độ ổn định
Giá gạo xuất khẩu từ Thái Lan tăng trong tuần này do nhu cầu cải thiện, trong khi giá của Ấn Độ vẫn ổn định trong bối cảnh hoạt động trầm lắng và nguồn cung đang tăng từ vụ thu hoạch mới.
Tại Thái Lan giá gạo 5% tấm tăng lên 562 – 570 USD/tấn so với 562 USD/tấn tuần trước.
Một thương nhân tại Bangkok cho biết sự tăng giá là do nhu cầu mạnh khi gần hết năm, với nhiều đơn hàng từ các nước Châu Á. Nhu cầu đến từ Indonesia và Philippines, nhưng các đơn đặt hàng từ Châu Phi không có do giá cao.
Giá gạo đồ 5% cám của Ấn Độ được chào bán ở mức 490 – 500 USD/tấn không đổi so với tuần trước. Nhu cầu yếu trong bối cảnh nguồn cung tăng từ vụ mới gây áp lực lên giá.
Nhu cầu vẫn chậm với những đợt điều chỉnh giá gần đây và người mua đang tạm dừng để đánh giá xu hướng giá trong tương lai.
Sản lượng gạo của Ấn Độ dự kiến giảm trong năm nay, lần đầu tiên trong 8 năm, làm tăng khả năng chính phủ sẽ gia hạn việc hạn chế xuất khẩu để kiểm soát giá lương thực trước cuộc bầu cử.
Gạo 5% tấm của Việt Nam tăng lên 650 – 655 USD/tấn, không đổi so với tuần trước.
Số liệu hải quan cho thấy trong 10 tháng đầu năm nay xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng 16% so với cùng kỳ năm trước, đạt 7,05 triệu tấn.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 10/11