Phát biểu mở đầu phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, đã qua đi 1/3 chặng đường của năm 2024 - năm bứt phá trong thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025, trong đó, tập trung vào thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế gồm: khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng truyền thống và thúc đẩy động lực tăng trưởng mới, trong đó có phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số.
Chú trọng 3 đột phá chiến lược gồm, thể chế, trong đó có thể chế liên quan đến chuyển đổi số; nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, trong đó trọng tâm là nhân lực phục vụ chuyển đổi số; Kết cấu hạ tầng, trong đó có hạ tầng số.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thu, chi NSNN, nhất là đẩy mạnh chuyển đổi số trong thu, chi ngân sách (như dịch vụ kinh doanh ăn uống, nhà hàng, thương mại điện tử, kinh doanh trên các nền tảng xuyên biên giới.
Thực hiện đầy đủ, kịp thời, nâng cao hiệu quả các chính sách người có công, trợ giúp xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có chi trả trợ cấp cho các đối tượng chính sách không dùng tiền mặt.
Thủ tướng khẳng định, chuyển đổi số là một nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển KTXH. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn quan tâm, yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương, Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số phải thường xuyên, liên tục theo dõi, đánh giá, đôn đốc, chỉ đạo sát sao công tác chuyển đổi số quốc gia, bảo đảm hiệu quả và thực chất.
Thủ tướng cho biết, Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số vừa ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2024, trong đó xác định trọng tâm của Chuyển đổi số quốc gia với chủ đề “Phát triển kinh tế số với 4 trụ cột công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số, dữ liệu số - Động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững”.
Tại phiên họp, Thủ tướng đề nghị các đại biểu phát biểu ngắn gọn, đúng trọng tâm, đi thẳng vào vấn đề, bảo đảm tiến độ, chất lượng, tập trung thảo luận đánh giá tình hình triển khai công tác chuyển đổi số quốc gia với trọng tâm là phát triển kinh tế số trên tinh thần khách quan, trung thực, có minh chứng bằng số liệu cụ thể, những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế, rào cản, điểm nghẽn và nguyên nhân; Chia sẻ những cách làm hay mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn. Bài học kinh nghiệm là gì, các giải pháp trọng tâm để thực hiện cao nhất nhiệm vụ đã được đề ra tại Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số, nhất là các giải pháp mang tính đột phá?
Báo cáo tại phiên họp, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) cho biết, thời gian qua công tác chuyển đổi số đạt được nhiều kết quả quan trọng, trong đó Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy chuyển đổi số. Các bộ, ngành, địa phương đã ban hành nhiều văn bản quan trọng hỗ trợ thúc đẩy chuyển đổi số.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số; chủ trì họp về tháo gỡ vướng mắc về bố trí, sử dụng kinh phí phục vụ triển khai Đề án 06/CP.
21 bộ, ngành và 62 địa phương đã ban hành Kế hoạch chuyển đổi số năm 2024. 19 bộ, cơ quan ngang bộ; Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và 63/63 địa phương đã ban hành Kế hoạch triển khai Đề án 06/CP. Còn 03 bộ, ngành chưa ban hành. 14 bộ, ngành và 52 địa phương đã ban hành hành danh mục cơ sở dữ liệu theo quy định, đạt tỷ lệ 77%, tăng 11% so với năm 2023.
Các cơ quan nhà nước tiếp tục khai thác, vận hành hiệu quả các Cơ sở dữ liệu quốc gia trong quản lý, điều hành kinh tế xã hội. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu tiếp tục được các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh triển khai, khai thác tối đa giá trị của dữ liệu.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối với 18 bộ, ngành, 63 tỉnh, thành phố và 4 doanh nghiệp; đồng bộ thành công trên 268 triệu thông tin người dân; tiếp nhận hơn 1,5 tỷ yêu cầu xác thực thông tin (tăng 213 triệu so với năm 2023). Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia đã kết nối với 388 hệ thống, cơ sở dữ liệu của 95 cơ quan, đơn vị tham gia kết nối. Trung bình mỗi ngày khoảng 2,8 triệu giao dịch. Tổng số giao dịch tới nay là khoảng 2 tỷ giao dịch.
Về phát triển hạ tầng số, hiện nay có 80,2% hộ gia đình sử dụng cáp quang internet băng rộng. 100% xã kết nối internet cáp quang. Di động băng rộng 4G được phủ sóng tới 99,8% dân số với chất lượng ổn định. Bộ TT&TT đã tổ chức đấu giá tần số 5G đối với 2 khối băng tần và sắp tới sẽ đấu giá thêm 1 khối.
Trong Quý I/2024, Việt Nam có thêm 1 Trung tâm dữ liệu của Viettel khai trương, cung cấp dịch vụ ra thị trường với tổng số 2400 racks.
Về phát triển Chính phủ số cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp có 80,44% TTHC đủ điều kiện toàn trình được cung cấp trực tuyến; 47,79% TTHC đủ điều kiện toàn trình được cung cấp toàn trình. Tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến trên tổng số hồ sơ giải quyết TTHC mới chỉ đạt khoảng 38,3%.
Về phát triển kinh tế số, Bộ TT&TT cho biết, tỷ trọng kinh tế số/GDP năm 2021, 2022 lần lượt là 11,91%, 14,26%. Tỷ trọng kinh tế số/GDP năm 2023 ước đạt 16,5% với tốc độ tăng 20%, gấp 3 lần tăng trưởng GDP.
Báo cáo của EconomySEA của Google, Temasek và Bain đánh giá tốc độ phát triển kinh tế số Việt Nam nhanh nhất Đông Nam Á trong 2 năm liên tiếp (2022 đạt 28%, 2023 đạt 19%), cao gấp 3,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Với mức tăng trưởng trên, dự báo tỷ trọng kinh tế số/GDP của Việt Nam năm 2025 đạt trên 20%.
Về phát triển xã hội số, Bộ Công an đã cấp trên 86 triệu thẻ CCCD gắn chíp; tiếp nhận trên 74,85 triệu hồ sơ định danh điện tử, kích hoạt trên 53,62 triệu tài khoản định danh điện tử cho người dân (đạt 71,63% hồ sơ tiếp nhận). Ứng dụng VNeID đã được tích hợp 8 dịch vụ tiện ích. Đã có 29,3 triệu lượt truy cập.
100% các cơ sở khám chữa bệnh có dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt; 100% cơ sở đào tạo y tế thanh toán học phí không dùng tiền mặt; khoảng 64% người dân hưởng nhận các chế độ BHXH, trợ cấp thất nghiệp ở khu vực đô thị nhận qua tài khoản cá nhân. 77% người dân trưởng thành có tài khoản thanh toán tại ngân hàng...
Bên cạnh đó, báo cáo của Bộ TT&TT cũng chỉ rõ trong xây dựng, hoàn thiện thế chế một số nghị định hướng dẫn luật đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao các bộ, ngành triển khai chậm. Việc rà soát, điều chỉnh các văn bản pháp lý để đơn giản hóa các chủ tục hành chính liên quan tới giải quyết giấy tờ công dân chậm triển khai.
Trong công tác kiện toàn tổ chức bộ máy nâng cao năng lực quản lý nhà nước về chuyển đổi số, nhiều bộ, ngành, địa phương chậm, chưa có Kế hoạch thực hiện Đề án Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý Nhà nước và thực thi pháp luật về chuyển đổi số từ Trung ương đến địa phương đến năm 2025, định hướng năm 2030.
Tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến trên tổng số hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính còn thấp, mới chỉ đạt khoảng 38,3%. Việc triển khai, thực hiện tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính của các bộ, ngành, địa phương còn chậm, mặc dù đã có quy định, hướng dẫn cụ thể từ Văn phòng Chính phủ.
20 bộ, ngành, địa phương chưa ban hành danh mục cơ sở dữ liệu và 31 bộ, ngành, địa phương chưa ban hành danh mục dữ liệu mở; còn tình trạng dữ liệu cá nhân bị khai thác, mua bán trái pháp luật...